ĐỐI KHÂM (對襟)
- Thanh Phong
- 6 thg 12
- 5 phút đọc
Dạng đối khâm là kiểu áo với hai vạt đối xứng giao nhau, cố định bằng nút hoặc dải buộc đôi khi buông thõng. Xuất hiện từ rất sớm trong trang phục phương Đông, dạng thức đối khâm không chỉ là một dạng cắt may đặc trưng mà còn là nền tảng ảnh hưởng đến nhiều loại y phục, trong đó có cả một số mẫu thức của Việt phục truyền thống. Vì vậy, tìm hiểu đối khâm sẽ giúp ta nhìn rõ hơn những giao thoa và bản sắc riêng trong trang phục cổ Việt Nam.
1. Đối khâm tại Trung Quốc
Đối khâm對襟 là một dạng có có đặc trưng bởi hai vạt áo song song đối nhau và được cài bằng nút ở chính giữa trước ngực. Hình thức của loại áo này có thể truy nguyên có từ thời Thương, qua hình tượng ngọc nhân trong mộ của Phụ Hảo; hiện vật áo đối khâm cổ áo thẳng khai quật từ mộ Sở Mã Sơn (Giang Lăng) thời Chiến Quốc cho thấy kiểu dáng này đã phát triển tương đối hoàn chỉnh. Tại mộ Mã Sơn (Giang Lăng) nước Sở, người ta khai quật được một áo đối khâm cổ đứng, theo báo cáo khai quật thì đây là áo tắm liệm cho người chết. Khi tìm thấy, áo được đặt trong một ống tre nhỏ, kèm một thẻ gỗ ghi chữ “y” (áo). Áo có cổ lõm phía sau, đối khâm, tay ngắn, không có dây buộc, dùng lụa màu nâu đỏ làm mặt ngoài, có hoa văn; viền cổ và viền tay đều trang trí bằng gấm. Kiểu thức áo này đã tương đối hoàn chỉnh, cho thấy dạng đối khâm đã xuất hiện từ thời gian sớm hơn.
Đây là hiện vật đối khâm đầu tiên được tìm thấy sau tượng ngọc thời Thương; từ kiểu dáng này có thể khẳng định nguồn gốc đối khâm của Trung Quốc còn sớm hơn nữa.
Đến thời Đường – Tống, trang phục đối khâm đạt đến đỉnh cao phát triển: kiểu dáng phong phú và số lượng người sử dụng nhiều hơn các triều đại trước. Trước thời Đường, đối khâm chỉ xuất hiện lác đác trong tranh tường khai quật được, không triều đại nào có lượng hiện vật phong phú như Đường – Tống. Điều này phản ánh sự phổ biến rộng rãi của đối khâm trong thời kỳ đó.
Các loại đối khâm對襟 gồm: Trực lĩnh đối khâm直領對襟 , hợp lĩnh đối khâm合領對襟, viên lĩnh đối khâm合領對襟, phương lĩnh đối khâm合領對襟 và thụ lĩnh đối khâm 合領對襟… Hiện vật áo đối khâm khai quật từ mộ Triệu Bá Vân趙伯澐 đời Nam Tống南宋 có dây buộc thả dưới nách, có thể mặc kiểu đối khâm hoặc giao lĩnh.

Thời Minh, Thái Tổ thực lục quy định hạn chế dân thường mặc áo đối khâm, chỉ cho phép người cưỡi ngựa sử dụng cụ thể: Thái Tổ thực lục 太祖實録: “洪武 二十六年三月,禁官民步卒人等服對襟衣,惟騎馬許服,以便於乘馬故也” (năm Hồng Vũ thứ hai mươi sáu, tháng ba, cấm quan lại và dân thường, binh lính mặc áo đối khâm; chỉ những người cưỡi ngựa mới được phép mặc, vì tiện cho việc lên ngựa)
Quan Trường Hiện Hình Ký官場現形記, kiểu áo đối khâm này còn được gọi là đối diện khâm對面襟: “陶子堯 ﹞便起身換了一件單袍子,一件二尺七寸天青對面襟大袖方馬褂。”( Tao Tử Nghiêu bèn đứng dậy thay một chiếc áo đơn, một chiếc mã quái tay rộng màu thiên thanh dài hai thước bảy tấc, kiểu đối diện khâm)
2. Đối khâm tại Việt Nam
Tại nước ta, dưới sự ảnh hưởng về mặt văn hóa và trang phục của Trung Quốc thì áo đối khâm có lẽ đã sớm xuất hiện. Do vấn đề tư liệu nên hiện nay cũng chưa thể xác định rõ áo đối khâm có từ bao giờ, và dùng có đối tượng nào.
Trong Ngàn năm áo mũ Trần Quang Đức đã đặt ra giả thuyết loại áo Sam dành riêng cho vua Đại Việt chính là dạng áo đối khâm tương tự của Tống Huy Tông Thính cầm đồ thời Nam Tống.
Đến thời Lê Trung Hưng, áo đối khâm được sử dụng tương đối rộng rãi ở cả trong cung đình và dân gian. Hiện nay còn rất nhiều các tranh vẽ, pho tượng tại các chùa, đền miếu mặc dạng thức đối khâm. Chẳng hạn như bức Vạn Quốc nhân vật đồ do người Nhật vẽ:

Hay tượng công chúa Lê Thị Ngọc Quyến (chùa Bút Tháp, Bắc Ninh) cũng mặc dạng thức áo đối khâm khoác bên ngoài.

Khi nhìn vào phong cách tượng thời Lê Trung Hưng có thể dễ dàng thấy các bà hậu trên tượng, hoặc các bà mệnh phụ công chúa thường kết hợp với loại mũ mang đậm âm hưởng Phật giáo này, phần lớn là dạng áo giao lĩnh, đi cùng với áo đối khâm và thường. Riêng hai pho tượng Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Oánh còn khoác vân kiên nạm hình rồng phượng phủ trên vai, phía dưới đính các dải anh lạc dài che lưng và bụng. Phần lớn viền áo, viền dây buộc tóc và viền tay áo đều được thêu dệt những hoa văn hoa cuộn đan xen. Một số bà phi còn mặc yếm đính các trang sức vàng, ngọc, hoặc đeo vòng trang sức nhiều tầng, toát lên vẻ sang trọng, quý phái.
Sang đến thời Nguyễn, có thể thất dạng thức áo Nhật Bình cũng mang khuynh hướng giống như đối khâm giai đoạn trước. Theo Hội điển, áo Nhật Bình là Triều phục dành cho cung tần nhất, nhị, tam, tứ giai và là Thường phục của hoàng hậu, công chúa. Áo Nhật Bình là loại áo xẻ cổ, có dạng đối khâm, cổ áo to bản tạo thành hình chữ nhật ở trước ngực, dưới ức có dải vải buộc hai vạt áo.

Từ các tranh tượng thời Lê Trung Hưng, dễ có thể thấy kiểu mũ tương tự vương miện, mang hơi hướng tôn giáo, kết hợp với các dạng áo giao lĩnh, tứ thân đối khâm, vân kiên, dải trang sức anh lạc, thậm chí phối với tràng hạt có thể là một trong những bộ Lễ phục của hậu phi nhà Lê Trung Hưng. Áo nhật bình vẫn giữ nguyên hình thức tương tự đối khâm, nhưng được cải biên để phù hợp với nghi lễ triều đình và thẩm mỹ triều Nguyễn. Phần tay áo của nhật bình rộng và dài hơn, thân áo thường có nhiều lớp vải trang trí tinh xảo với họa tiết rồng, phượng, mây, nước. Có thể thấy đây cũng là một sự kế thừa và phát huy từ Lê Trung Hưng sang Nguyễn.
Tác giả: Thỏ ăn Su Hào
(Nội dung thuộc bản quyền của Thanh Phong
Vui lòng ghi rõ nguồn khi trích dẫn hoặc sử dụng lại)



Bình luận