top of page

Bức Cân là gì?

  • Ảnh của tác giả: Thanh Phong
    Thanh Phong
  • 14 thg 11
  • 5 phút đọc

1. Bức cân tại Trung Quốc 

Bức cân幅巾 hay còn gọi là cân trách 巾幘 hoặc mạt đầu帕頭là một loại khăn đội đầu xuất hiện tương đối sớm, thường được làm từ một tấm vải, phổ biến là lụa dài ba thước hoặc vải gai. Thông thường, người có địa vị bình thường sẽ đội vải gai, quý tộc thì sử dụng lụa. Đến thời Tống, bức cân trở thành một phần của lễ phục dành cho sĩ đại phu, được dùng trong lễ nghi, tế tự. Còn vào thời Minh bức cân trở thành trang phục thường ngày của các học giả.

Về hình dáng, bức cân ban đầu là một tấm vải vuông, khi sử dụng sẽ quấn từ trán ra sau và buộc quanh búi tóc. Vào thời Bắc Chu dưới triều Vũ Đế, bức cân được thêm bốn góc,ư dần phát triển thành phốc đầu 幞头. 

Tài liệu sớm nhất nhắc đến bức cân là trong Hậu Hán Thư. Tên gọi 幅巾 đã xuất hiện từ thời Hậu Hán, được ghi lại trong Hậu Hán thư – Trịnh Huyền truyện (《後漢書 鄭玄傳》) rằng:“玄不受朝服,而以幅巾見。” (Dịch nghĩa: “Huyền không nhận triều phục, mà đội bức cân khi gặp mặt). Điều này cho thấy bức cân được sử dụng tương đối phổ biến trong giới trí giả thời Hán. Cũng là biểu tượng của sự thanh lịch nhã nhặn. Cũng vì thws mà Tấn thư 晉書cũng nhấn mạnh: “後漢末,王公名士以幅巾為雅,是以袁紹、崔鈞之徒,雖為將帥皆著縑巾。” (Dịch nghĩa: “Cuối Hậu Hán, vương công và danh sĩ coi bức cân là thanh lịch, vì vậy những người như Viên Thiệu, Thôi Quân, dù là tướng lĩnh cũng đều đội kiêm cân”.

Mã phu thời Hán đội bức cân - tranh trên gạch khai quật từ mộ Hán, Lạc Dương, Hà Nam
Mã phu thời Hán đội bức cân - tranh trên gạch khai quật từ mộ Hán, Lạc Dương, Hà Nam

Theo Dương Hùng 揚雄trong Phương Ngôn 方言viết:“幅巾之名自關西秦晉之郊日絡頭,西楚江湘之間日陌頭,自河北趙魏之間日繰頭。” (Dịch nghĩa: “Tên gọi bức cân vùng Quan Tây (Tần, Tấn) gọi là ‘lạc đầu’, ở Tây Sở (Giang, Tương) gọi là ‘mạc đầu’, ở Hà Bắc (Triệu, Ngụy) gọi là ‘sào đầu’). Như vậy, bức cân không chỉ là vật dụng mà còn mang sắc thái văn hóa và phong tục vùng miền khác nhau.

Sĩ nhân đội là lăng giác cân vào thời Tào Ngụy – Tấn
Sĩ nhân đội là lăng giác cân vào thời Tào Ngụy – Tấn

Theo Đại Đường tân ngữ 大唐新語 của Lưu Túc 劉肅, bức cân còn gắn liền với sự kiện lịch sử: “昔袁紹與魏武帝戰于官渡,軍敗,幅巾渡河,遁相仿效,因以成俗。初用全幅皂向後幞發,謂之‘幞頭’。” (Dịch nghĩa: “Ngày trước, Viên Thiệu giao chiến với Vũ Vương (Tào Tháo) ở Quan Độ, quân thua, vượt sông, người khác bắt chước theo, từ đó thành tục. Ban đầu dùng bức cân toàn bộ màu đen quấn ra sau, gọi là phốc đầu)

Các ghi chép sau này như Phong Thị Văn Kiến Lục 封氏聞見錄 và Tịch Thượng Hủ Đàm 席上腐談của Du Nghiêm 俞琰 đều nhấn mạnh sự biến đổi kiểu dáng và tên gọi phốc đầu幞頭 xuất phát từ bức cân dùng để quấn đầu, với bốn góc vải để che búi tóc, ứng biến theo mùa. Tư Mã Quang trong Thư Nghi chép: “布四腳其製如幅巾,前綴二大腳,後綴二小腳以覆髻,自額前向頂後以大腳係之,大暑則屈後,小腳于髻前係之,謂之幞頭。” (Dịch nghĩa: “Bốn góc vải, làm giống bức cân, trước đính hai chân lớn, sau đính hai chân nhỏ để che búi tóc, từ trán trước ra đỉnh sau buộc bằng chân lớn; mùa hè uốn ra sau, chân nhỏ buộc trước búi, gọi là phốc đầu”.

Qua các triều Tống – Minh, bức cân vẫn là vật dụng phổ biến, đặc biệt được giới sĩ đại phu ưa thích, như Chu Hy 朱熹 khi tế tiên tổ và Khổng Tử mặc cũng đội bức cân đi phương lý 方履. Trong di chúc của Khuất Đại Quân 屈大均, bức cân còn được dùng trong nghi lễ mai táng: “吾死後,以幅巾、深衣、大帶為殮。大帶書碣‘明之遺民’。” (Dịch nghĩa: “Sau khi ta chết, dùng bức cân, thâm y, đại đới để mai táng. Trên đại đới viết “Di dân nhà Minh”. 

Như vậy, bức cân không chỉ là vật dụng thời trang mà còn mang ý nghĩa văn hóa, phong tục và lễ nghi, biểu hiện cho sự thanh lịch, trí thức và truyền thống tôn trọng nghi lễ trong xã hội Trung Quốc cổ đại. Nó trải qua nhiều biến thể về hình thức và cách sử dụng, từ Hậu Hán, Tào Ngụy – Tấn, đến thời Tống – Minh, trở thành một biểu tượng văn hóa đặc trưng của tầng lớp trí thức và quý tộc.

Hiện vật Bức cân thời Minh chỉ có hai dây
Hiện vật Bức cân thời Minh chỉ có hai dây

2. Bức cân tại Việt Nam

Trong Thanh Hư động ký清虛洞記, Nguyễn Phi Khanh chép vào năm Xương Phù thứ 8 (1384) rằng:”幅巾倘佯以登乎岩之上。岫煙島霞….”(Dịch nghĩa: Đầu bịt Bức cân, lững thững bên đèo). Ghi chép này chỉ cho thấy khái niệm bức cân của tại Việt Nam ít nhất  đã có từ thời Trần. Thuật ngữ Bức cân có thể xuất hiện sớm hơn, và hình thức khăn buộc đầu tương tự bức cân ở Trung Hoa  Phục sức Bức cân tiếp tục được sử dụng và ghi chép lại trong các triều đại Việt Nam sau đó.

Trong Vũ trung tùy bút – Quyển thượng – Quan lễ 雨中隨筆 卷上冠禮 của Phạm Đình Hổ, có ghi: “幅巾製用方巾折摺為之詳見家禮”. Dịch nghĩa“Bức cân dùng Phương Cân gấp lại mà thành, cụ thể xem Gia lễ…”. Đồng thời, tác giả còn ghi:“ 我國無緇布冠而包頂亦所以斂髮或時戴幅巾”(Dịch nghĩa: Tục nước ta không dùng mũ Truy bố, nhưng nếu muốn che tóc có thể dùng mũ Bao đính, có lúc lại đội Bức cân”

Samuel Baron vẽ thời Lê trung hưng
Samuel Baron vẽ thời Lê trung hưng

Trong Petit dictionnaire français-annamite, Bức cân được giải nghĩa: “Bandeau s m. Khăn bịt đầu” (Bức cân.). Vào thời Lê – Nguyễn, phục sức Bức cân được coi là một loại công phục, tức trang phục trang trọng của nho sĩ và dân gian. Có thể thấy quan niệm của Việt Nam khá tương đồng với Trung Hoa, xem Bức cân là phụ kiện tao nhã, trang trọng, được sử dụng rộng rãi bởi các bậc nho sĩ, học giả và người dân trong các dịp trang trọng, đồng thời còn dùng làm phục sức khâm liệm thời nhà Nguyễn.

Tác giả: Thỏ ăn Su Hào

(Nội dung thuộc bản quyền của Thanh Phong

Vui lòng ghi rõ nguồn khi trích dẫn hoặc sử dụng lại)

Bình luận


bottom of page