Viên lĩnh 圓領
- Thanh Phong
- 50 phút trước
- 9 phút đọc
Áo viên lĩnh là một trong những kiểu trang phục tiêu biểu của văn hóa mặc truyền thống phương Đông, đặc trưng bởi cổ tròn khép kín, dáng áo trang trọng, cân đối. Tại Việt Nam, áo viên lĩnh được tiếp nhận và biến đổi qua nhiều thời kỳ lịch sử, đặc biệt phổ biến trong môi trường cung đình và tầng lớp quan lại trung đại. Không chỉ mang giá trị thẩm mỹ, áo viên lĩnh còn phản ánh trật tự lễ nghi, thân phận xã hội và tư tưởng chính trị – văn hóa của từng giai đoạn lịch sử.
1. Áo viên lĩnh tại Trung Quốc
Nguồn gốc chính xác của áo viên lĩnh đến nay vẫn chưa thể khảo chứng rõ ràng. Căn cứ vào tranh tường và tượng người thời Hán, có thể thấy đã xuất hiện hình ảnh nhân vật mặc trang phục viên lĩnh ở bên trong áo ngoài, cho thấy vào thời Hán loại trang phục này chủ yếu được sử dụng như nội y, dung để lót bên trong. Từ sau thời Đông Hán, trang phục viên lĩnh dần xuất hiện với tần suất ngày càng nhiều. Đến thời Ngụy – Tấn, viên lĩnh bắt đầu được mặc như ngoại y.

Áo viên lĩnh trước thời Ngụy – Tấn thì nguồn gốc cụ thể đã khó khảo chứng. Căn cứ vào bích họa và di vật khảo cổ, từ thời Hán và trước đó đã xuất hiện hiện tượng mặc trang phục viên lĩnh bên trong áo ngoài. Sang đến thời Thời Ngụy – Tấn – Nam Bắc triều áo viên lĩnh còn được gọi là sam bào hoặc thượng lĩnh bào; bào là áo kép, sam là áo đơn, về sau gọi chung là bào. Hai vạt áo chồng khép ở trước ngực, dùng dải buộc hoặc khuy cài kéo lên đến cổ và cố định ở một bên, kết hợp cắt may tạo thành cổ tròn. Cách đóng khép này hoàn toàn khác với giao lĩnh hữu nhậm truyền thống, giúp che chắn cơ thể kín hơn và tăng hiệu quả chống gió cát
Sau Nam Bắc triều và thời Tùy, áo viên lĩnh chính thức trở thành thường phục. Sang đến thời Đường thì tương đối phổ biến. Danh họa triều Đường Diêm Lập Bản trong tác phẩm nổi tiếng Bộ liễn đồ đã khắc họa một sự kiện lịch sử: năm Trinh Quán thứ 15 (641), sứ giả Thổ Phồn Lộc Đông Tán đến Trường An nghênh đón Văn Thành Công chúa vào Tây Tạng, được Đường Thái Tông tiếp kiến. Bên phải bức họa là Đường Thái Tông ngồi trên bộ liễn; bên trái có ba người đứng, người ở giữa đội mũ nỉ, mặc cẩm bào chính là Lộc Đông Tán, hai người còn lại là quan lại nhà Đường. Các nhân vật trong tranh đều mặc áo bào viên lĩnh tay hẹp, kể cả hoàng đế.
Đường Trung thư lệnh Mã Chu dâng sớ rằng: trong Lễ không có ghi chép về áo sam, chế độ Tam đại có thâm y, đề nghị thêm lan vào tay áo để làm chính phục của sĩ nhân; loại xẻ tà gọi là khuyết khố sam, dành cho thứ dân. Trưởng Tôn Vô Kỵ lại tấu rằng: người mặc bào thì dưới thêm lan, màu đỏ thẫm, tím, lục căn cứ theo phẩm cấp, còn thứ dân dùng màu trắng. Từ đó, sĩ nhân thời Tùy – Đường lấy áo viên lĩnh lan sam làm thượng phục.
Xét từ quá trình du nhập cho đến khi thịnh hành, từ trang phục quân dụng cho tới dân phục, áo viên lĩnh có lịch sử lâu dài và diễn biến hết sức phức tạp. Viên lĩnh còn được gọi là đoàn lĩnh, thực chất là một kiểu cổ không có ve. Hình dáng cổ áo gần tròn, bên trong có lớp lót cứng, miệng cổ được đính khuy áo. Áo bào viên lĩnh là loại bào tay hẹp có cổ viên lĩnh. Theo Đường thư – Dư phục chí, thường phục của thiên tử gồm áo bào hoặc áo sam màu đỏ vàng, đội chiết thượng cân, thắt đai ngọc, đi giày lục hợp.
Sau quá trình phát triển qua các triều Tùy – Đường, áo viên lĩnh dần phổ biến khắp cả nước; cả nam và nữ đều có thể mặc. Áo bào viên lĩnh của nam giới thường là màu trơn, không có hoa văn; trong khi đó, áo bào viên lĩnh của nữ giới có màu sắc tươi sáng và thường được trang trí hoa văn. Trong bích họa Đôn Hoàng, bức Đô đốc phu nhân lễ Phật đồ vẽ hình ảnh phụ nữ người Hồi Hột, cũng có thể thấy hình tượng nữ giới mặc áo bào viên lĩnh.

Thời Minh, áo viên lĩnh được kết hợp với quan phục trên quy mô lớn. Khi đó xuất hiện một cơ chế đặc biệt gọi là “bổ” (补), dùng để phân biệt thứ bậc quan lại theo cửu phẩm. Năm Hồng Vũ nguyên niên, học sĩ Đào An xin triều đình chế định miện phục. Chu Nguyên Chương chỉ thị rằng lễ phục không nên quá rườm rà: khi tế trời đất và tông miếu chỉ cần đội Thông Thiên quan, mặc sa bào. Quan từ nhất phẩm đến ngũ phẩm mặc quan phục màu tía, từ lục, thất phẩm mặc màu phi (đỏ thẫm).
Đến Hồng Vũ năm thứ ba (1370), quan viên Bộ Lễ tâu rằng màu sắc y phục thời cổ được quy định theo thuyết Ngũ đức: nhà Hạ chuộng màu đen, nhà Ân chuộng màu trắng, nhà Chu chuộng màu đỏ, nhà Tần chuộng màu đen, nhà Hán chuộng màu đỏ, nhà Đường chuộng màu vàng. Triều Minh noi theo các triều Chu, Hán, Đường, Tống, lấy Hỏa đức làm chính để cai trị thiên hạ, do đó màu sắc nên tôn sùng là màu đỏ. Chu Nguyên Chương chấp thuận và quy định rằng vào các đại lễ như Chính đán, Đông chí, Thánh tiết (sinh nhật hoàng đế), lễ tế xã tắc, tiên nông, cũng như các nghi lễ sách phong, bái mệnh…, đều phải mặc cổn phục.
2. Áo viên lĩnh tại Việt Nam
Trong Ngàn năm áo mũ tác giả Trần Quang Đức đưa ra nhận định: “Đoàn lĩnh cũng gọi là viên lĩnh, nôm na gọi là áo cổ kiềng, chỉ loại áo cổ tròn, gài cúc bên vai phải. Vào thời Lê, Nguyễn, áo đoàn lĩnh chỉ được dùng trong những buổi Đại triều”.
Xét về vị trí địa lý và bối cảnh lịch sử, nước ta nằm cạnh Trung Quốc nên chịu không ít ảnh hưởng về văn hóa. Chưa rõ áo viên lĩnh xuất hiện ở nước ta từ khi nào, nhưng ở nước ta các dạng thức viên lĩnh cũng tương đối đa dạng.
Trước hết là dạng thức viên lĩnh làm triều phục đã xuất hiện từ thời Tiền Lê, Toàn thư chép: “Bính Ngọ, /Ứng Thiên/ năm thứ 13 [1006], (Vua vẫn theo niên hiệu Ứng Thiên; Tống Cảnh Đức năm thứ 3). Mùa xuân, tháng hai, phong con trưởng là Sạ làm Khai Phong Vương, con nuôi là Thiệu Lý làm Sở Vương, cho ở bên tả; Thiệu Huân làm Hán Vương, cho ở bên hữu. Sửa đổi quan chế và triều phục của các quan văn võ và tăng đạo, theo đúng như nhà Tống”. Nếu như vua Lê Long Đĩnh đã sử dụng quy chế của nhà Tống là quy chế chung phổ rộng cho Đại Cồ Việt thì ắt hẳn đó là quy chế viên lĩnh phối cùng phốc đầu.

Thời Lý, trang phục trong dân gian và cung đình cũng đều trang phục người Việt sống trong đô thành, Chu Khứ Phi cho biết: “Người nước ấy áo thâm, răng đen, búi tóc chuy kế, đi đất, sang hèn đều như vậy. Vua ngày thường cũng vậy, song cài trâm vàng, trên mặc áo Sam vàng, dưới mặc thường tía. Những người còn lại, ngày thường trên thì vận áo Sam đen cổ tròn bó sát, bốn vạt như áo Bối Tử, gọi là áo Tứ Điên; dưới thì vận thường đen. Hoặc có kẻ cài trâm sắt, có kẻ đi dép da, tay cầm quạt lông hạc, đầu đội nón hình ốc […] Đàn bà trắng trẻo, khác hẳn đàn ông. Thường đen là phục sức quây bên ngoài của đàn ông. ” (4) Mã Đoan Lâm tham khảo ghi chép của Chu Khứ Phi, đồng thời chú thích: “Những người còn lại đều mặc áo cổ tròn bốn vạt, áo Sam đen không thắt lưng, dưới áo Sam thắt thường đen, cài trâm bạc hoặc sắt, đi dép da, cầm quạt lông hạc, đội nón ốc. Dép da, dùng da làm đế, gia thêm trụ nhỏ, lấy ngón chân kẹp lại mà đi. Quạt, tết từ lông chim hạc, để tránh rắn. Nón ốc, đan từ lạt trúc, hình dạng như con ốc, trông tinh xảo nhất. Phụ nữ nhiều người trắng trẻo, khác hẳn đàn ông, thích mặc áo trực lĩnh màu lục thụng tay, đều thắt bằng thường đen.”(1) Như vậy, cách ăn mặc ngày thường của đàn ông thời Lý gồm hai chiếc áo cổ tròn mặc lồng ghép. Chiếc áo ngoài cùng xẻ bốn vạt, dưới lớp áo này được quây một dạng xiêm màu đen, còn được gọi là thường, bên trong cùng là chiếc quần lụa trắng, tương tự lối ăn mặc của quan dân thời Trần theo lời mô tả của Lê Tắc”.
Đến triều Trần đã xuất hiện các loại viên lĩnh bán tý, trong bức Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ là minh chứng cụ thể cho loại hình viên lĩnh bán tý giai đoạn này.

Sang đến thời Lê, xuất hiện các loại hoàng bào đoàn lĩnh, Chỉ Nam ngọc âm định nghĩa: “Hoàng bào Tống tổ mặt phong mạvàng. Đoàn lĩnh, áo chầu đỉnh đang.” Áo bào dùng khi thiết triều đại đa số là loại áo đoàn lĩnh, (còn có tên viên lĩnh, cổ kiềng, thụng tay, bên trong mặc lót áo giao lĩnh. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn, dạng áo này hầu như không bị thay đổi về kiểu cách. Bào phục của các triều đại chủ yếu được phân biệt ở kiểu dáng hoa văn và bố cục hoa văn sức trên áo. Toàn thư và Loại chí đều ghi nhận vào thời Lê sơ, khác với bá quan, trang phục của vua không phân biệt Công phục hay Thường phục, vào các buổi Thường triều ngày mồng 5, 10, 20, 25 cho đến ngày rằm và mồng một, vua Lê đều đội mũ Xung Thiên, mặc Hoàng bào. Đối với quan viên từ năm 1437 đến năm 1471, Thường phục của bá quan nhà Lê là mũ Ô Sa trơn kết hợp với áo bào đoàn lĩnh trơn tương tự bá quan Triều Tiên trước năm 1454 tính từ thời điểm áp dụng quy chế Bổ tử (sớm hơn Việt Nam mười bảy năm). Quy định về phục sắc Thường phục Ô Sa tương tự phục sắc Công phục Phốc Đầu: nhất phẩm đến tam phẩm mặc áo màu đỏ, tứ phẩm - ngũ phẩm mặc áo màu lục, còn lại đều mặc áo màu xanh.
Các triều Mạc – Lê Trung hưng sau này vẫn sử dụng quy chế triều phục là áo viên lĩnh kết hợp bổ tử và ô sa.

Trong dân gian, trang phục viên lĩnh cũng tương đối phổ biến sử dụng trong mọi tầng lớp, xuất hiện nhiều trên các tượng và tranh niên đại giai đoạn Lê Trung Hưng

Đến thời Nguyễn, các loại long bào cổ tròn của các hoàng đế thời Nguyễn vẫn xuất hiện tương đối nhiều, thường sử dụng trong các dịp lễ.

Đối với quan lại quy chế Triều phục mũ Phốc Đầu kết hợp với Bổ phục thời Lê Trung Hưng vẫn tiếp tục được áp dụng đối với các chức quan ngũ, lục phẩm triều Nguyễn. Bên cạnh đó, quy chế triều Nguyễn quy định: các quan nhất, nhị, tam phẩm mặc Mãng bào; quan tứ phẩm theo quy chế năm 1804 mặc Hoa bào, từ năm 1845 trở về sau đổi sang mặc Giao bào.

Tóm lại áo viên lĩnh, với cổ tròn, thường được liên hệ với hình ảnh trọn vẹn, hoàn hảo trong văn hóa Á Đông, dù ý nghĩa này mang tính suy luận nhiều hơn là ghi chép lịch sử. Cổ tròn của áo viên lĩnh còn thể hiện sự trang trọng, phù hợp với các nghi lễ và triều phục, phản ánh tư duy thẩm mỹ của tầng lớp quý tộc về sự cân đối và hài hòa.
Tác giả: Thỏ ăn Su Hào
(Nội dung thuộc bản quyền của Thanh Phong
Vui lòng ghi rõ nguồn khi trích dẫn hoặc sử dụng lại)



Bình luận