Vân Kiên là gì?
- Thanh Phong
- 1 thg 11
- 5 phút đọc
Đã cập nhật: 2 thg 11
Vân kiên 雲肩 hay còn gọi là Phi Kiên 披肩 hoặc Đáp Kiên 搭肩 là một mảnh vải trang trí thường đắp trên vai áo trong các trang phục xưa. Ban đầu, nó được dùng để bảo vệ cổ áo và vai khỏi bụi bẩn, sau đó dần phát triển thành một món đồ trang trí làm bằng gấm thêu nhiều màu sắc
1. Vân Kiên tại Trung Quốc
Về nguồn gốc có thể thấy Vân Kiên雲肩 có thể đã xuất hiện sớm nhất từ thời Tần, ban đầu khởi nguyên là các loại phi phất và bội tử được thấy trong các bức bích họa ở hang Mạc Cao (Đôn Hoàng). Theo ghi chép trong Nguyên sử – Dư phục chí元史·舆服志, Vân Kiên雲肩 thời Nguyên có hình thức cố định “làm như mây rủ bốn phía”, Nguyên văn: “雲肩,製如四垂雲,青緣,黃羅五色,嵌金為之。” (Vân Kiên, chế như tứ thùy vân, thanh duyên, hoàng la ngũ sắc, khảm kim vi chi). Nghĩa là: Vân Kiên được chế tác giống như bốn vầng mây buông rủ, viền màu xanh, nền lụa vàng ngũ sắc, có gắn vàng trang trí.)
Về hình dáng, Vân Kiên 雲肩chủ yếu mang hình “tứ hợp như ý”, ngoài ra còn có kiểu lá liễu, kiểu hoa sen... Việc cắt may chú trọng tính đối xứng, thường dùng kỹ thuật thêu để trang trí theo phong vị bốn mùa cùng các biểu tượng cát tường, đôi khi còn gắn chuông bạc hoặc tua rủ để tăng vẻ mềm mại sinh động. Lý Ngư 李漁thời Thanh cho rằng việc phối hợp Vân Kiên雲肩 cần hài hòa với màu sắc y phục. Vào thời Ngũ Đại, Vân Kiên雲肩 thường được thấy trên trang phục của kỹ nữ, nhạc công và giới tu sĩ; đến đầu thời Nguyên – Minh lại trở thành lễ phục của quan lại và một số quý tộc. Giữa và cuối thời Minh, kiểu dáng Vân Kiên雲肩 không còn giới hạn trong dạng “tứ hợp như ý”, mà xuất hiện các mẫu xếp tầng các loại hoa văn sang trọng và cao cấp hơn để phục vụ cho tầng lớp quý tộc cũng đi kèm với thân phận và địa vị của họ.
Thời Thanh, Vân Kiên雲肩 trở nên phổ biến trong mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là trang phục cưới của phụ nữ. Ở Quảng Đông còn có loại Vân Kiên được thêu bằng lông công. Thời Tống, Vân Kiên với kết cấu chia mảnh thể hiện quan niệm vũ trụ “trời tròn đất vuông”, bốn góc buông xuống tượng trưng cho bốn mùa tuần hoàn; tại thành Lâm An khi ấy đã có các cửa hàng chuyên sản xuất loại trang phục này gọi là Kiên Nhi Phố肩儿铺. Sau thời Dân Quốc, Vân Kiên dần biến mất khỏi trang phục thường nhật, chỉ còn được giữ lại trong phục trang sân khấu.

(Vân kiên tại Trung Quốc)
2. Vân Kiên tại Việt Nam 雲肩
Tại nước ta Vân Kiên từ sớm đã xuất hiện, sớm nhất có lẽ dưới thời Lê, trong tranh vẽ của họa sĩ Samuel Baron đã có đề cập cảnh vua Lê ngồi trên ghế rồng, mặc long bào đội mũ xung thiên bên dưới có quan thần đang tiếp kiến, hai bên là nghi vệ cầm lọng và cờ. Phần cổ áo có kèm thêm vật tương đối giống với Vân Kiên.

(Tranh vẽ một buổi lễ tại cung vua Lê của Samuel Baron)
Ngoại trừ bức tranh của Samuel Baron vẽ vua Lê, chúng ta cũng bắt gặp một số tượng Lê Trung Hưng vẫn sử dụng Vân Kiên đi kèm với trang phục. Cụ thể như tượng quận công Nguyễn Thế Mỹ và phu nhân:

(Tượng quận công Nguyễn Thế Mỹ và phu nhân)
Hay như các tượng nữ thời Lê Trung Hưng như pho tượng Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Oánh còn khoác vân kiên nạm hình rồng phượng phủ trên vai, phía dưới đính các dải anh lạc dài che lưng và bụng. Phần lớn viền áo, viền dây buộc tóc và viền tay áo đều được thêu dệt những hoa văn hoa cuộn đan xen. Một số bà phi còn mặc yếm đính các trang sức vàng, ngọc, hoặc đeo vòng trang sức nhiều tầng, toát lên vẻ sang trọng, quý phái.

(Tượng hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc)
Từ các bức tượng trên có thể thế Vân Kiên là một trong những loại phụ kiện đi kèm với trang phục của các mệnh phụ thời Trung Hưng, thường kết hợp với các dạng áo Giao Lĩnh, tứ thân Đối Khâm, Vân Kiên, dải trang sức anh lạc, thậm chí phối với tràng hạt.
Sang đến thời Nguyễn, Vân Kiên vẫn tiếp tục được sử dụng và ngày càng xuất hiện dày đặc hơn. Vào thời vua Minh Mạng, quân phục hay trang phục nhà vua sử dụng khi duyệt binh được quy định là mũ võ Đại Long kết hợp với Hoàng bào hẹp tay có Vân Kiên liền cổ màu xanh thẫm.
Nguyên văn trong Đại Nam Hội điển sự lệ: “狹袖跑製用正黃純綫光素涼紗,繡龍雲、水波、古圖、 八寳,裏牡丹蝶赤花紬,緣寶藍純金蓮花一項錦,均串結細小珍珠、珊瑚粒。雲肩連領子用天青光 素八絲緞,繡龍雲、水波、古圖、八寳”
(Áo bào hẹp tay làm bằng sa mát bóng thuần chỉ màu vàng chính sắc, thêu rồng mây, sóng nước, cổ đồ, bát bảo, lót trừu màu hoa xích thêu mẫu đơn, bươm bướm. Viền gấm hạng nhất hoa sen thuần vàng màu bảo lam, đều xâu chuỗi các hạt trân châu, san hô nhỏ. Vân Kiên liền cổ áo làm bằng đoạn Bát ti bóng màu thiên thanh, thêu rồng mây, sóng nước, cổ đồ, bát bảo.)
Không chỉ vua mà các tầng lớp thấp hơn như binh lính, vũ công cung đình cũng sử dụng. Như ở binh lính triều Nguyễn, có thể thấy binh lính triều Nguyễn tuyệt đại đa số đều đội nón, đi đất. Sự phân biệt giữa các hạng binh lính chủ yếu nằm ở kiểu dáng nón mão. Riêng áo mặc phần nhiều là loại áo song khai, cài khuy, xẻ vạt trước và sau, vai áo có viền mây bao quanh, gọi là vân kiên.
Hay một số vũ công cung đình triều Nguyễn cũng sử dụng trang phục có gắn kèm Vân Kiên.

(Đội ca vũ múa bài bông trước sân điện Cần Chánh, 1919. Nguồn: Flickr manhhai)
Có thể thấy tại nước ta, vân kiên được sử dụng tương đối đa dạng. Từ hoàng đế cho đến các bậc mệnh phụ, quan lại đều thấy sử dụng vân kiên trong trang phục lễ nghi, đặc biệt là trong các triều đại Lê – Nguyễn. Ở tầng lớp hoàng gia, Vân Kiên thường được làm cầu kỳ với chất liệu gấm vóc thượng hạng có thể thêu chỉ vàng hoặc chỉ ngũ sắc. Trong khi đó, quan lại và quý tộc sử dụng vân kiên với họa tiết giản lược hơn, song vẫn giữ được vẻ trang trọng, phản ánh địa vị và phẩm cấp xã hội. Đặc biệt ở phụ nữ nhất là các bậc mệnh phụ, Vân Kiên trở thành điểm nhấn thẩm mỹ tinh tế, kết hợp với áo giao lĩnh hay áo đối khâm tạo nên dáng vẻ mềm mại, trang nhã mà vẫn tôn lên uy nghi lễ nghi. Những hình ảnh về Vân Kiên trong tượng thờ và các tư liệu khác cho thấy đây không chỉ là yếu tố trang phục mà còn là biểu tượng văn hóa mang đậm bản sắc phương Đông, được người Việt tiếp thu biến đổi và sáng tạo phù hợp với thẩm mỹ dân tộc.
Tác giả: Thỏ ăn Su Hào
(Nội dung thuộc bản quyền của Thanh Phong
Vui lòng ghi rõ nguồn khi trích dẫn hoặc sử dụng lại)